Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ là gì?
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trước hết xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Vậy Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ là gì?
1. Khái quát
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 356 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gọi tắt là BLHS), cụ thể như sau:
“Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”.
Như vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi làm trái với nhiệm vụ được giao của người có chức vụ, quyền hạn, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trước hết hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật tuỳ thuộc vào lĩnh vực mà hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn xảy ra.
2. Cấu thành tội phạm
2.1. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm phải là người có chức vụ, quyền hạn. Theo Khoản 2 Điều 352 BLHS, người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
Nếu so sánh với tội tham ô tài sản, thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng có thể là người có liên quan hoặc không liên quan đến việc quản lý tài sản; phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội này rộng hơn đối với tội tham ô. Nếu so sánh với tội nhận hối lộ, thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như người phạm tội nhận hối lộ, chỉ khác nhau ở chỗ, người phạm tội nhận hối lộ lại không có hành vi gây thiệt hại khác cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ. Tuy nhiên, về lý luận thì nhận hối lộ cũng là gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hành vi tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô, tội nhận hối lộ và các tội phạm khác, có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn; do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi gây thiệt hại đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội. Nếu họ không có chức vụ, quyền hạn thì họ không thể thực hiện được hành vi gây thiệt hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, có thể thấy nếu người gây thiệt hại cho xã hội không có dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn thì hành vi gây thiệt hại có thể cấu thành một tội phạm khác. Dấu hiệu về chủ thể đặc biệt chỉ yêu cầu người phạm tội, trong trường hợp đồng phạm thì những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức không cần dấu hiệu trên đây.
2.2. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả xảy ra; không có trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn gây thiệt hại cho xã hội.
Động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu không xác định được động cơ của người phạm tội thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không cấu thành tội phạm này. Động cơ phạm tội là động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, cụ thể:
Động cơ vụ lợi là vì lợi ích vật chất, tinh thần, mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được thông qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Có thể hiểu động cơ vụ lợi là động cơ mưu cầu lợi ích vật chất cho mình, cho người khác hoặc cho một nhóm người nào đó. Thực tiễn, việc xác định động cơ “vụ lợi” với “tư lợi” trong nhiều trường hợp khó phân biệt. Nếu người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái công vụ đem lại lợi ích cho cá nhân mình nhưng lại không là tham ô tài sản thì giữa vụ lợi và tư lợi chỉ là một. Tuy nhiên, nhà làm luật dùng thuật ngữ vụ lợi là bao hàm cả những trường hợp không phải cho cá nhân mà cho một nhóm người trong đó có mình.
Động cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm như: vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội… Đây cũng là dấu hiệu rất khó định lượng và trong thực tế nhiều trường hợp nó trở thành một căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
2.3. Khách thể của tội phạm
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trực tiếp xâm hại đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức; làm cho các cơ quan tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước.
2.4. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội này là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ. Theo đó, làm trái công vụ là không làm hoặc làm không đúng, không đầy đủ nhiệm vụ được giao. Làm trái công vụ là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này. Nếu người phạm tội không làm trái công vụ mà làm đúng nhưng vẫn gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì không cấu thành tội phạm này mà tùy trường hợp cấu thành tội phạm khác.
Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn, mà không phải là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, cụ thể là hành vi phạm tội phải gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nếu tài sản bị thiệt hại chưa đến 10.000.000 đồng và không gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì không cấu thành tội phạm này.
Nếu thiệt hại không phải là tài sản mà người phạm tội gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân cũng vẫn cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên “thiệt hại khác” là thiệt hại gì, như thế nào hiện chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nên thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau khi xác định thiệt hại; nhưng về nguyên tắc, phải là những thiệt hại thực tế mà nguyên nhân trực tiếp gây ra là do hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chứ không phải là nguyên nhân gián tiếp.
Hậu quả của tội phạm rất đa dạng, chúng có thể là những thiệt hại mang tính vật chất như tính mạng, sức khỏe, tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại phi vật chất như uy tín, danh dự, nhân phẩm con người… Khi có hậu quả xảy ra thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ bị coi là tội phạm.
Thủ đoạn phạm tội là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tức là người phạm tội sử dụng quyền hạn được giao như là một phương tiện phạm tội để thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, tội phạm này hoàn toàn không có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản.
3. Hình phạt
Các trường hợp phạm tội cụ thể:
3.1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự:
Khoản 1 Điều 356 quy định mức thiệt hại về tài sản phải từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng. Điều 356 còn quy định một tình tiết là dấu hiệu định tội, đó là: “gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Gây thiệt hại khác là ngoài việc gây thiệt hại về tài sản thì còn có những thiệt hại khác bao gồm: làm cho tổ chức, doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến người lao động biểu tình…
Khoản 1 Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể, rõ ràng về hậu quả của tội phạm là gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Với hậu quả mà hành vi này gây ra thì người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật Hình sự, tòa án phải căn cứ vào Điều 50 Bộ luật Hình sự. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, hoặc có tình tiết tăng nặng nhưng tính chất, mức độ tăng nặng không đáng kể thì tòa án có thể áp dụng dưới 01 năm tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự thì vẫn có thể được hưởng án treo. Tuy nhiên, việc cho người phạm tội hưởng án treo chỉ đối với trường hợp đặc biệt, vì tội phạm này cũng là tội phạm tham nhũng.
3.2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 356 BLHS
(i) Có tổ chức
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 17 BLHS.
Khi xác định hành vi tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có tổ chức thì nhất thiết phải có người tổ chức (chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm) và người thực hành (trực tiếp thực hiện tội phạm), còn có các người khác như người giúp sức, người xúi giục có thể có hoặc có thể không có. Khi đã xác định phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có tổ chức thì tất cả những người tham gia đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự cùng điểm, khoản của điều luật, trừ trường hợp người thực hành có hành vi vượt quá.
(ii) Phạm tội 02 lần trở lên
Phạm tội 2 lần trở lên trong tội phạm lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ là có từ 02 lần trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, không phụ thuộc vào khoảng thời gian từ lần phạm tội trước tới lần phạm tội sau.
Cũng như đối với các tội phạm khác, khi áp dụng tình tiết phạm tội 02 lần trở lên cần chú ý: nếu chỉ có 02 lần phạm tội nhưng trong đó có 01 lần đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị xử lý bằng các hình thức như kỷ luật, phạt tiền hoặc hành vi chưa cấu thành tội phạm thì không phải là phạm tội 02 lần.
(iii) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 356 Bộ luật Hình sự thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015, tòa án phải căn cứ vào Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 356 sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn trường hợp người phạm tội chỉ có 01 tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc có tình tiết tăng nặng nhưng tính chất, mức độ tăng nặng không đáng kể thì tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới 05 năm tù. Vì là tội phạm tham nhũng nên việc cho người phạm tội được hưởng án treo đối với trường hợp này là không nên.
(iv) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 356 BLHS
Khoản 3 Điều 356 chỉ quy định một tình tiết định khung, đó là gây thiệt hại từ 1.000.000.000 đồng trở lên. Có thể nói, tình tiết gây thiệt hại từ 1.000.000.000 đồng trở lên là tình tiết thay thế một phần tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” trước đây.
(v) Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị áp dụng hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ
Luôn tận tâm vì bạn!
CÔNG TY LUẬT ÁNH SÁNG VIỆT
Trụ sở: Phòng 3B1, Tòa B - Sun Square, Số 21 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 024 6684 6117
Hotline: 0936.214.556
Website: luatanhsangviet.com - http://asvlaw.net
Email: luatanhsangviet@gmail.com