skip to Main Content

QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

Miễn hình phạt là việc Tòa án không buộc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt. 

Miễn hình phạt chỉ đặt ra cho những trường hợp việc áp dụng hình phạt đối với họ là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.

  • Quy định của Pháp luật Hình sự về miễn hình phạt 

Căn cứ theo Điều 59 Bộ luật Hình sự 2015 quy định miễn hình phạt đối với người phạm tội phải thỏa mãn 2 điều kiện.

*Điều kiện thứ nhất: 

  • Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trong các trường hợp sau đây:
  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  • Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
  • Phạm tội do lạc hậu;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  • Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  • Người phạm tội tự thú;
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
  • Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  • Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
  • Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

*Điều kiện thứ hai: 

Người phạm tội phải đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.

Như vậy, theo quy định người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 có nghĩa là phải được Tòa án xét xử dưới khung hình phạt hoặc áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn; phù hợp với cách hiểu theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao: “Xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 của Bộ luật Hình sự đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau…”.

  • Đánh giá về quy định 

*Hậu quả pháp lý đối với người được miễn hình phạt về nội dung xóa án tích còn chưa đồng nhất với các luật khác:

 Theo khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”, được coi là người được miễn hình phạt được đương nhiên xóa án tích ngay tại thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật hoặc sau khi đã chấp hành xong các nghĩa vụ khác trong bản án như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp án phí, lệ phí. 

Trong khi đó, nếu một người vi phạm hành chính và bị xử phạt, thì đối với họ trong thời hạn 6 tháng hoặc 1 năm sau kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm mới được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. 

Từ hai quy định trên cho thấy được điểm không công bằng giữa người phạm tội được miễn hình phạt với người bị xử lý vi phạm hành chính, ngoài ra BLHS còn xác định dấu hiệu nhân thân (đã bị xử phạt hành chính) là một trong những yếu tố định tội. 

Như vậy, nếu đặt trách nhiệm hậu quả pháp lý của người được miễn hình phạt và người bị xử lý hành chính lên cán cân thì cho thấy người vi phạm hành chính còn phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm khắc hơn so với người được miễn hình phạt, mà người được miễn hình phạt là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm.

*Chính sách “khoan hồng đặc biệt”:

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn tình tiết nào về nội dung “đáng được khoan hồng đặc biệt” cho người phạm tội. Bộ luật Hình sự 2015 và Luật Đặc xá 2018 chỉ quy định nội dung “chính sách khoan hồng” bao gồm:

  • Miễn trách nhiệm hình sự;
  • Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; 
  • Miễn hình phạt;
  • Đặc xá;
  • Đại xá;
  • Xóa án tích. 

Tuy nhiên, chưa có quy định, điều kiện cụ thể nào để được hưởng chính sách “khoan hồng đặc biệt”. Do vậy, việc hiểu và áp dụng nội dung này để miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định tại Điều 59 BLHS 2015 phụ thuộc vào đánh giá tùy nghi của Hội đồng xét xử, có thể dẫn tới tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất.

 

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ

Luôn tận tâm vì bạn!

CÔNG TY LUẬT ÁNH SÁNG VIỆT

Trụ sở: Phòng 3B1, Tòa B - Sun Square, Số 21 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Tp Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 6117 

Hotline: 0936.214.556

Website: luatanhsangviet.comhttp://asvlaw.net

Email: luatanhsangviet@gmail.com

Back To Top
Search
Đăng ký tư Vấn