skip to Main Content

TỘI CƯỠNG DÂM

Cưỡng dâm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gọi tắt là BLHS). Vậy cưỡng dâm là gì? Cấu thành tội phạm ra sao?

1. Cưỡng dâm là gì?

Cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

2. Cấu thành tội phạm

  • Khách thể của tội phạm

Tội phạm cưỡng dâm xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và sức khoẻ của người khác (gồm sức khoẻ về thể chất và sức khoẻ về tinh thần).

  • Mặt khách quan của tội phạm

– Về hành vi của người phạm tội

Tội phạm có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác đối với người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách bằng cách dùng các thủ đoạn như: mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa…

Trong đó, theo Nghị quyết 06/2019 của Hội đồng thẩm phán thì:

Giao cấu quy định là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.

Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.

Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

    • Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
    • Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.

– Về đối tượng bị hại

Bị hại gồm một trong hai trường hợp sau:

Người có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội, được hiểu là mối quan hệ lệ thuộc về nhiều mặt, cụ thể: Về vật chất như được nuôi dưỡng, được trợ giúp về điều kiện sinh sống…; Về xã hội như giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân; Về tín ngưỡng như giữa tín đồ với người có chức sắc tôn giáo; Về gia đình như giữa anh chị em cùng cha khác mẹ…; Về công tác như giữa thủ trưởng với nhân viên thuộc quyền. Tất cả các mối quan hệ như trên phải là mối quan hệ lệ thuộc thực sự, tức là người phạm tội phải có uy tín nhất định đối với người bị hại.

Người đang ở trong tình trạng quẫn bách, được hiểu là trường hợp người không có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội, nhưng do nhiều nguyên nhân họ rơi vào tình trạng quẫn bách, đang ở trong trạng thái hết sức khó khăn, tự mình không thể hoặc khó có thể khắc phục được, mà đòi hỏi cần người khác trợ giúp. Thông thường là  những khó khăn rất lớn về kinh tế… khó có thể khắc phục được hoặc đang gặp hiểm hoạ, ví dụ như: Người thân mắc bệnh hiểm nghèo không có điều kiện tài chính để chữa trị; Bản thân hoặc gia đình bị thiên tai, phá sản nên bị túng thiếu nghiêm trọng cần phải có sự giúp đỡ…

Bị hại phải miễn cưỡng giao cấu với người phạm tội, được hiểu là bị hại chấp nhận giao cấu nhưng không phải tự nguyện mà do tác động bởi thủ đoạn khống chế tư tưởng như dọa dẫm, hứa hẹn, giúp đỡ… của người phạm tội. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng thủ đoạn để khống chế tư tưởng của bị hại chưa đến mức thực sự làm họ bị tê liệt ý chí, không còn khả năng tự vệ, nghĩa là họ vẫn còn khả năng kháng cự, tuy nhiên họ đã không kháng cự mà tự nguyện cho giao cấu một cách miễn cưỡng theo điều kiện mà người phạm tội đã đưa ra. Đây là điểm khác biệt với hành vi hiếp dâm (người bị hại đã tê liệt ý chí không kháng cự được). 

Đối với hành vi cưỡng dâm, tội phạm hoàn thành từ lúc người bị hại giao cấu với người phạm tội.

  • Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội cưỡng dâm thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Người phạm tội biết nạn nhân là người lệ thuộc mình hoặc biết họ là người đang trong tình trạng quẫn bách. Người phạm tội cũng biết hành vi đe dọa hay hứa hẹn cùa mình là hành vi lợi dụng quan hệ lệ thuộc hoặc là hành vi lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng cho giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

  • Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời phải có mối quan hệ lệ thuộc với người bị hại hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ người bị hại thoát khỏi tình trạng quẫn bách.

3. Hình phạt

  • Về hình phạt chính, Điều 143 BLHS quy định 04 khung hình phạt với tội cưỡng dâm, cụ thể:

(1) Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

Đây là khung hình phạt cơ bản cho người phạm tội hiếp dâm.

(2) Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với các trường hợp:

– Nhiều người cưỡng dâm một người;

– Phạm tội 02 lần trở lên;

– Đối với 02 người trở lên;

– Có tính chất loạn luân;

– Làm nạn nhân có thai;

– Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;

– Tái phạm nguy hiểm.

(3) Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm đối với các trường hợp:

– Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

– Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

– Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

(4) Đối với trường hợp cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khung tăng nặng, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại mục (2) hoặc mục (3) thì bị xử phạt theo mức hình phạt tương tự.

  • Về hình phạt bổ sung

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ

Luôn tận tâm vì bạn!

CÔNG TY LUẬT ÁNH SÁNG VIỆT

Trụ sở: Phòng 3B1, Tòa B - Sun Square, Số 21 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Tp Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 6117 

Hotline: 0936.214.556

Website: luatanhsangviet.comhttp://asvlaw.net

Email: luatanhsangviet@gmail.com

Back To Top
Search
Đăng ký tư Vấn