PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TẠM GIAM
1. Khái niệm về tạm giam
Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử của Tố tụng Hình sự. Khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này, người bị tạm giam bị cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người, quyền công dân như quyền tự do đi lại, quyền tự do thân thể, quyền cư trú…
Biện pháp này được áp dụng với mục đích ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội và không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
2. Đối tượng áp dụng
Các đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 119 BLTTHS 2015.
3.Trường hợp bị tạm giam
Căn cứ theo Điều 119 BLTTHS 2015 quy định về tạm giam trong các trường hợp sau:
– Thứ nhất, có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
– Thứ hai, có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
– Thứ ba, có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
– Thứ tư, đối với bị can, bị cáo thuộc trường hợp “đặc biệt” là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
4. Thời hạn tạm giam
Thời hạn tạm giam để điều tra:
– Thời hạn tạm giam bị can để điều tra được quy định theo Khoản 1 Điều 173 BLTTHS, như sau:
- Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
- Không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng;
- Không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Đối với những trường hợp vụ án có nhiều tình tính phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn trong việc điều tra và không co căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn thời hạn tạm giam quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 173 BLTTHS 2015:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Ngoài ra, việc gia hạn thời hạn tạm giam được quy định tại Khoản 5, 6 Điều 173 BLTTHS 2015 được áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt, như sau:
- Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì có thể được gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng. Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam có thể được gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra;
- Trường hợp cần thiết đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không phải tội xâm phạm an ninh quốc gia và không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì có thể được gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng. Trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam có thể ra quyết định việc tạm giam của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho đến khi kết thúc việc điều tra.
– Thời hạn tạm giam được tính từ ngày ra quyết định tạm giam.
Thời hạn tạm giam để truy tố:
Căn cứ theo Điều 241 về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế quy định về
“Thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố, không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật này”,
Và Khoản 1 Điều 240 quy định về thời hạn quyết định việc truy tố
“Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra”
Tức là, thời hạn tạm giam để truy tố không được quá thời hạn quyết định việc truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng trong thời hạn là 20 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong thời hạn là 30 ngày.
Như vậy, thời hạn tạm giam không quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử tối đa. Ngoài ra, trong một số trường hợp thì thời hạn tạm giam có thể được rút ngắn nếu vụ án đó được giải quyết sớm hơn.
Khi hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trong trường hợp xét thấy cần thiết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Việc bảo quản tài sản của người bị tam giam:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 120 BLTTHS 2015, trường hợp người bị tạm giam có nhà ở hoặc tài sản khác mà không có người bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc ra quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản.
5. Thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam
Những người có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam, bao gồm: (khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015)
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Lệnh tạm giam của những người có thẩm quyền trên phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xem xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ
Luôn tận tâm vì bạn!
CÔNG TY LUẬT ÁNH SÁNG VIỆT
Trụ sở: Phòng 3B1, Tòa B - Sun Square, Số 21 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Tp Hà Nội.
Điện thoại: 024 6684 6117
Hotline: 0936.214.556
Website: luatanhsangviet.com - http://asvlaw.net
Email: luatanhsangviet@gmail.com