skip to Main Content

BẮT, GIỮ, GIAM NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN GIAM, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

1. ĐIỂM GIỐNG NHAU

Hiện nay, những hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật hay lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật đều là những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và được Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định cụ thể. Theo đó, hai loại tội phạm này lại mang những nét tương đồng nhất định. Cụ thể như sau:

– Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật đều xâm phạm đến quyền tự do của con người.

– Về mặt khách quan, hai tội phạm này đều cấu thành về hình thức là có hành vi bắt giữ người khác.

– Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật đều được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Theo đó, động cơ, mục đích đa dạng không phải là yếu tố bắt buộc.

Tuy nhiên, tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật là hai loại tội phạm hoàn toàn khác nhau và cũng được điều chỉnh bởi những nội dung pháp luật khác nhau.

2. ĐIỂM KHÁC NHAU

Tiêu chí so sánhTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luậtTội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật
Căn cứ pháp lýĐiều 157 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Khách thể của tội phạm– Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được coi là xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ, quyền tự do đi lại của người khác được bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật.– Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt giữ, giam người trái pháp luật là tội xâm phạm trực tiếp đến quyền nhân thân (quyền bất khả xâm phạm) của người bị bắt, giam, giữ. Lẽ ra họ được thả tự do thì lại vẫn bị tạm giam, bị giữ.

– Bên cạnh đó, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật còn xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp.

Mặt khách quan của tội phạmHành vi khách quan của tội này là hành vi dưới dạng hành động, cụ thể:

– Hành vi bắt người trái pháp luật: Được thể hiện ở hành vi khống chế người khác để tạm giữ hoặc tạm giam họ. Việc khống chế này có thể dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác nhau như trói, còng tay…

– Hành vi giữ người trái pháp luật: Được thể hiện ở hành vi không cho người bị bắt đi đâu vượt ra ngoài sự kiểm soát của người phạm tội trong một khoảng thời gian ngắn.

– Hành vi giam người trái pháp luật: Được thể hiện ở hành vi nhốt người bị bắt vào một nơi trong một thời gian nhất định (như nhốt ở trong nhà…).

Hành vi khách quan của tội này là hành vi dưới dạng không hành động, cụ thể:

– Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật: Người có đủ thẩm quyền và có đủ căn cứ pháp lý để ra quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ nhưng đã không ra quyết định trả tự do cho người đó.

– Không thực hiện quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật: Người có trách nhiệm thi hành các quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ đã không thực hiện quyết định trả tự do của cấp có thẩm quyền.

– Không có căn cứ theo quy định của pháp luật mà lại đưa ra quyết định bắt, giữ, giam người

– Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quyết định của luật.

– Không có lệnh, theo quyết định của luật mà lại thực hiện việc bắt, giữ, giam người hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng không có hiệu lực thi hành.

– Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.

Chủ thể của tội phạm– Chủ thể thực hiện tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có thể là bất kì ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch).

– Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: người từ đủ 16 tuổi trở lên.

– Chủ thể thực hiện tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Thiếu một trong hai năng lực này, người đó bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự và được loại trừ trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật hình sự.

– Chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật phải là những chủ thể đặc biệt, bao gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Thẩm phán; Giám thị trại giam, trại cải tạo.

Như vậy, chủ thể của tội phạm phải là những công dân Việt Nam và phải là những người có chức vụ, quyền hạn có nghĩa vụ trong việc trả tự do cho người bị giam, bị giữ mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

– Về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự: phải là những chủ thể từ đủ 18 tuổi trở lên và đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ họ là những người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hệ thống cơ quan nhà nước.

Mặt chủ quan của tội phạm– Đây là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.

Cụ thể, người phạm tội nhận thức rõ mức độ nguy hiểm do hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật, nhìn thấy trước hậu quả gây tổn hại đến thân thể, quyền tự do của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn tội phạm xảy ra.

– Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm. Người phạm tội phạm tội có thể vì nhiều động cơ và mục đích khác nhau.

– Đây là tội phạm được thực hiện do cố ý. Có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

Cụ thể, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là lượi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền và việc không ra quyết định trả tự do hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ như vậy là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.

– Động cơ tuy không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, dù người phạm tội với động cơ nào đi nữa thì hành vi không ra quyết định hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật đều đã cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, động cơ của người phạm tội chủ yếu là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, rất ít trường hợp vì động cơ vì muốn hoàn thành nhiệm vụ.

Mức hình phạt– Khung 1: Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Đối với người đang thi hành công vụ;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Đối với 02 người trở lên;

+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

+ Làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;

+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

– Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

+ Làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát;

+ Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam;

+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

– Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

– Khung 1: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;

+ Ra lệnh, quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật;

+ Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;

+ Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành;

+ Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.

– Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người;

+ Làm người bị giam, giữ trái pháp luật bị tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

+ Làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;

+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

– Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

+ Giam, giữ trái pháp luật 06 người trở lên;

+ Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết;

+ Làm người bị giam, giữ tự sát;

+ Làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.

– Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN PHÁP LUẬT, QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ

Luôn tận tâm vì bạn!

CÔNG TY LUẬT ÁNH SÁNG VIỆT

Trụ sở: Phòng 3B1, Tòa B - Sun Square, Số 21 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Tp Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 6117 

Hotline: 0936.214.556

Website: luatanhsangviet.comhttp://asvlaw.net

Email: luatanhsangviet@gmail.com

Back To Top
Search
Đăng ký tư Vấn